Doanh nghiệp xuất khẩu: Rủi ro rình rập

Hàng tồn kho, nợ chồng chất
Đồng Nai là tỉnh có thế mạnh về xuất khẩu cà phê, hạt điều nhân, cao su, mật ong... Tuy nhiên, sản lượng xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng này đều giảm mạnh trong quý I/2009.
So với cùng kỳ năm trước, cà phê giảm 24,7%, hạt điều nhân giảm 31,4%, mật ong giảm 24,1%, giày dép giảm hơn 7%, cao su giảm trên 38%, hàng may mặc giảm 3,6%...
Đầu ra khó khăn, gánh nặng hàng tồn kho càng đè lên vai các DN. Công ty chế biến XNK nông sản thực phẩm Đồng Nai (Donafoods) tồn kho 550,6 tấn nhân điều, trị giá 43,8 tỉ đồng; hơn 3.800 tấn hạt điều thô, trị giá 105 tỉ đồng.
Công ty CP mật ong Đồng Nai tồn kho 800 tấn mật ong, 20 tấn sáp ong; Công ty CP đường Biên Hòa tồn kho 150 tấn đường tinh luyện...
Những DN tồn đọng hàng lớn còn có Công ty cổ phần (CP) chế biến gỗ Tân Mai, Công ty CP may Đồng Nai, Công ty CP chế biến hàng xuất khẩu, Công ty Động cơ và máy nông nghiệp miền Nam... với giá trị hàng trăm tỉ đồng.
Bên cạnh đó, nỗi lo lớn nhất của các DN là do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, rủi ro trong thanh toán hợp đồng xuất khẩu đang tăng cao. “Đối tác nước ngoài trở nên chây ỳ thanh toán hơn bất cứ lúc nào. Họ sẵn sàng xù mình”, đại diện một DN cho biết.
Theo DN này, một đối tác Nga của họ đã chậm trả khoản nợ 10 triệu USD, lần lữa kéo dài 6 tháng qua khiến DN đã khó càng thêm khó.
Ông Nguyễn Viết Bình, Giám đốc Công ty gốm Việt Thành, than: “Công ty chúng tôi xuất 4 container gốm cho đối tác Nga, nhưng khi hàng đến cảng, đối tác không nhận và bỏ hàng ở cảng trong 3 tháng.
Giá trị đơn hàng này là 54.000 USD. Họ yêu cầu nếu muốn họ nhận hàng phải giảm giá 30%. Sau khi thương thảo, hai bên đồng ý giảm 20%. Tuy nhiên, thời gian thanh toán lại kéo dài đến tháng 6.2009. Đây là đối tác đã làm với chúng tôi 3 năm nay. Việc giải phóng hàng dù gì cũng rất tốt, nếu không chúng tôi phải chở hàng về”.
Tổng giám đốc Công ty CP may Đồng Tiến, ông Vũ Ngọc Thuần, cho biết gần như DN nào cũng gặp tình trạng như Công ty Việt Thành. Một công ty nhập khẩu của Anh đang nợ gần 10 DN may mặc Việt Nam với số tiền gần 3 triệu USD, trong đó nợ Đồng Tiến 89.000 USD, Công ty X. 850.000 USD... “Đối tác này là công ty lớn và uy tín của Anh, nhưng vì họ phá sản, không có khả năng trả nợ”, ông Thuần nói.
Làm gì để hạn chế rủi ro?
Ông Phạm Xuân Hồng, Phó chủ tịch Hội Dệt may VN, cho biết tình trạng thanh toán chậm của khách hàng nước ngoài đang gia tăng theo sự khó khăn chung của kinh tế thế giới. Công ty CP may Sài Gòn 3 chuyên làm ăn với các đối tác lớn nhưng hiện cũng xảy ra một số trường hợp khách hàng chậm thanh toán đến 1 tháng.
“Thực tế đang có nhiều khó khăn như đơn hàng giảm về số lượng và giá nên không loại trừ nhiều DN phải chấp nhận các điều kiện hơi thiệt thòi về mình dù biết rằng nó có tiềm ẩn rủi ro.
Vì vậy nên cẩn thận hơn và đừng cố gắng nhận bất kỳ hợp đồng nào mà điều kiện thanh toán quá rủi ro cho mình. Khi có sự cố xảy ra khó có cơ quan quản lý nào can thiệp và giúp đỡ được”, ông Hồng nói.
Còn ông Diệp Thành Kiệt, Phó chủ tịch Hội Da giày TP.HCM, thì cho rằng việc thanh toán chậm còn tùy thuộc vào mối quan hệ giữa DN với đối tác nước ngoài. Nếu đã chọn phương thức thanh toán không mở L/C để tiết kiệm chi phí từ trước đến nay thì giờ cũng sẽ khó thay đổi. Đây là vấn đề cơ bản trong kinh doanh mà DN phải chú trọng ngay từ đầu.
Ông Trần Quang Huy, Phó vụ trưởng Vụ Châu Phi - Tây Á - Nam Á, Bộ Công thương nhận định thị trường dễ mang lại rủi ro nhất cho DN là Trung Đông và châu Phi.
Lý do là khả năng thanh toán của nhiều đối tác hạn chế; phương thức thanh toán theo tập quán của những nước này thường không phải là L/C nên nhà xuất khẩu chịu nhiều rủi ro hơn; các mặt hàng xuất khẩu chính sang khu vực là hàng nông sản, giá cả thường xuyên biến động nên khi giá tăng người mua có thể lấy cớ từ chối nhận hàng.
Vì thế, khi làm ăn với những đối tác này, theo ông Huy, điều quan trọng là DN cần xác định uy tín của đối tác.
Thanh Niên
Tin liên quan