Xuất khẩu vàng : Vì sao phải bí mật?

Theo số liệu từ Bộ Công thương, trong 2 tháng đầu năm 2009, kim ngạch xuất khẩu vàng và kim loại quý của các DN trong nước đạt 800 triệu USD, tăng 7.107% so với cùng kỳ. Con số này gây bất ngờ cho không ít người do trước đó không có thông tin gì về việc cấp hạn ngạch cũng như cho phép DN dược xuất khẩu vàng.
Lãi lớn!
Trong 2 tháng đầu năm 2009, Ngân hàng TMCP Đông Á đạt 109 tỷ đồng lợi nhuận, trong đó 30% là từ kinh doanh vàng. Trong cùng khoảng thời gian, CTCP Vàng bạc Đá quý Phú Nhuận (PNJ) đạt 51,6 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế, tăng 82% so với cùng kỳ năm ngoái...
Trên thực tế, có thời điểm giá vàng trong nước thấp hơn giá vàng thế giới trên 1 triệu đồng/lượng. Trong khi lượng vàng trong dân lớn và bản thân các DN kinh doanh vàng cũng có lượng vàng dự trữ khi mua ở mức giá thấp, việc được phép xuất khẩu vàng sẽ mang lại nguồn lợi lớn.
Theo quy định hiện nay, để được xuất khẩu vàng, DN phải có giấy phép kinh doanh vàng tiêu chuẩn quốc tế do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cấp. Bên cạnh đó là hoạt động có uy tín trên thị trường, kinh doanh có hiệu quả trong năm gần nhất, chấp hành đúng các quy định về quản lý ngoại hối và quản lý kinh doanh vàng của NHNN. Ngoài ra, DN phải có có khả năng cân đối cung cầu ngoại tệ.
Không ít người đặt câu hỏi, vì sao trong đợt xuất khẩu vàng vừa qua, cơ quan quản lý không công khai danh sách và khối lượng được phép xuất khẩu của các DN? Theo giải thích của một chuyên gia về vàng, những thông tin về xuất hoặc nhập khẩu vàng đều có tác động đến tâm lý người dân nên các số liệu trên không được công khai, việc giữ bí mật nhằm tránh những xáo trộn trên thị trường.
Khát vàng lợi hay hại?
Vàng trên thị trường Việt Nam chủ yếu có nguồn gốc nhập khẩu qua hai kênh chính: kênh nhập khẩu chính ngạch do Nhà nước cấp hạn ngạch cho các DN kinh doanh vàng với khối lượng khoảng 30 tấn/năm và kênh nhập không chính thức khác. Do có nguồn gốc nhập khẩu là chính, nên dù được nhập qua kênh nào thì giá vàng trong nước cũng sẽ biến động theo giá thế giới. Tuy nhiên, do việc quản lý hạn ngạch, thuế cũng như các rào cản kỹ thuật khác, các tác động khác, nên không phải giá vàng trong nước lúc nào cũng xấp xỉ giá vàng quốc tế. Thực tế có những lúc hai mức giá này chênh lệch nhau tới gần 2 triệu đồng/lượng.
Ông Đinh Nho Bảng, Tổng thư ký Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam cho rằng, việc xuất khẩu vàng khi chênh lệch giá lớn tốt cả về vĩ mô và vi mô. Về vĩ mô, Nhà nước cân đối được cung cầu ngoại tệ, ổn định cán cân thanh toán. Còn về vi mô, DN có cơ hội kiếm lợi nhuận cao, Nhà nước thu được thuế, hạn chế tình trạng xuất khẩu lậu.
Ông Huỳnh Trung Khánh, cố vấn Hội đồng Vàng thế giới tại Việt Nam cho biết, những tháng đầu năm 2009, việc xuất khẩu thép bị ngưng trệ đã ảnh hưởng đến cân đối ngoại tệ, nên việc xuất khẩu vàng đã bù lại do khoảng trống xuất khẩu thép gây nên. Việc xuất khẩu vàng như vừa qua, theo ông Khánh, là không đáng lo ngại. Sau này, nếu nhu cầu trong nước tăng cao, Nhà nước vẫn điều tiết được bằng hạn ngạch, nên tùy tình hình cân đối cung cầu mà cho nhập nhiều hay nhập ít.
Ở các nước, việc xuất nhập khẩu vàng rất bình thường, nhưng Việt Nam, tâm lý người dân vẫn chịu tác động mạnh mỗi khi có thông tin trên, cùng với chính sách quản lý ngoại hối khá chặt của Việt Nam nên xuất nhập khẩu vàng vẫn phải theo hạn ngạch. Về dài hạn, theo đúng quy luật thị trường, giá vàng trong nước nên sát giá vàng thế giới. Vì thế, nhiều ý kiến cho rằng, đã đến lúc thực hiện linh hoạt việc xuất, nhập khẩu vàng. Mặt khác, cần công khai hơn nữa tiêu chí để lựa chọn các DN được thực hiện xuất, nhập khẩu vàng nhằm đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh.
ĐTCK
Tin liên quan